Kinh tế là
một môn khoa học xã hội, thể hiện ở 2 khía cạnh: khoa học (sự chắc chắn) và
khía cạnh xã hội (sự không chắc chắn). Đối với tôi, nghiên cứu kinh tế là một
kiểu làm nghệ thuật, nhưng ở một khía cạnh khoa học, đúng đắn. Ngay cả việc tạo
ra cái mới trong nghiên cứu kinh tế cũng chỉ là phát hiện ra một quy luật kinh
tế mới, chứ không phải tạo ra một cái gì đó vô thực. Đối với tôi, nghiên cứu
khoa học có một sức hấp dẫn riêng và cũng có những yêu cầu khắc khe mà tôi sẽ
trình bày sau đây.
Nghiên cứu
khoa học là tạo ra cái mới, hầu hết đều không phải là mới hoàn toàn, nó bắt đầu
từ sự kế thừa của những nghiên cứu trước đó. Giống như một nguyên liệu trong
trong nấu ăn, nhà nghiên cứu kinh tế kế thừa những thông tin nghiên cứu trước
đó, cùng với một bộ dữ liệu mới để biến tấu tạo những tác phẩm của riêng mình.
Với những ý tưởng về món ăn ban đầu, các đầu bếp sẽ lựa chọn những nguyên liệu
tốt nhất và phù hợp nhất. Những đầu bếp thì xem xét nguyên liệu tốt nằm ở
màu sắc, cấu trúc, độ tươi mới…, còn với những nhà nghiên cứu khoa học, những
tài liệu tham khảo phải có xếp hạng học thuật cao, tiêu biểu như journal
ranking; các dữ liệu phải được lấy từ nguồn tin cậy hoặc qua quá trình điều tra
khảo sát có tính chuyên môn cao. Những nguyên liệu này (các tài liệu và dữ liệu
nghiên cứu) sẽ đóng góp tỷ lệ quan trọng vào chất lượng thành phẩm cuối cùng
(the findings). Phần quan trọng nhất, cũng là phần nổi bật nhất ở một bài
nghiên cứu là phương pháp nghiên cứu. Nó thể hiện giá trị khoa học của bài
nghiên cứu và đó cũng chính là phần mà tác giả tạo ra giá trị cốt lõi của kết
quả nghiên cứu. Phương pháp khoa học tương tự những kỹ thật nấu ướng thể hiện sự
kỳ công của tác giả vào tác phẩm của mình. Và sau cùng trước khi ra mắt công
chúng (make public), tác giả sẽ kiểm định lại kết quả nghiên cứu của mình, một
công đoạn mà tôi gọi nó giống như là quality control của các nhà máy.
Tôi so sánh
quá trình NCKH như việc nấu ăn, hay tạo ra một sản phẩm thương mại nào đó, có
thể là một điều khá khập kiểng, bởi vì NCKH là một quá trình kỳ công và tốn nhiều
thời gian và công sức hơn là những gì tôi đã so sánh ở trên. Hơn nữa, đối với
tôi, nghiên cứu định lượng là loại “ma thuật đen” mà người ta hay nhắc đến
trong thuật giả kim. Đó là kỹ thuật nghiên cứu kinh tế dự trên phương pháp toán
học thống kê, gọi tắt là kinh tế lượng – lượng hóa tất cả các yếu tố trong kinh
tế học, đặc biệt là đo lường tác động giữa các yếu tố kinh tế. Để đo lường tác
động thật sự trong kinh tế học không phải điều dễ dàng. Việc phân tích mẫu dữ
liệu để phán đoán ra quy luật kinh tế thật sự ở tổng thể là một thách thức cho
nhà nghiên cứu. Một mẫu nghiên cứu luôn có 2 mặt: tính đại diện cho tổng thể và
tính riêng biệt của nó, bởi vậy nghiên cứu kinh tế luôn đi kèm với rủi ro sai lệch,
nhưng ở một mức độ cho phép. Theo thuyết liên hệ trong triết học, mọi sự vật điều
có mối quan hệ tác động lẫn nhau ở nhiều mặt, nhiều khía cạnh; điều này được thể
cụ thể trong việc kiểm soát sai số, các yếu tố nhiễu (bao gồm tác động của
chính nó trong quá khứ) trong mô hình nghiên cứu. Bởi vậy, việc sử dụng kỹ thuật
thể tìm ra quy luật thật sự là cả một nghệ thuật trong xây dựng mô hình, chọn
biến, xử lý dữ liệu của nhà nghiên cứu.
Nếu như người
ta cho rằng điện ảnh hay văn học là môn nghệ thuật của sự lừa dối thì tôi gọi
NCKH là môn nghệ thuật của sự thật. Nghiên cứu khoa học nói chung hay nghiên cứu
kinh tế nói riêng là một phương pháp bóc trần sự thật, những sự thật nằm ẩn
trong các quy luật kinh tế mà được bao bọc bằng những con số và sự kiện. Hơn nữa
các nhà nghiên cứu phải nhìn nhận một các xác đáng về những điểm mạnh, điểm yếu
trong công trình của mình, cũng như giới hạn và phạm vi nghiên cứu, và cả những
giả định ngầm cho trước. Tất cả đều phải minh bạch, rõ ràng và kết quả nghiên cứu
chỉ có một – là sự thật, không phải như những cái kết mở trong các tác phẩm văn
học hay điện ảnh.
0 Comments